Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, người được giám hộ là những người được Ủy ban nhân dân cấp xã cử hoặc Tòa án chỉ định người để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong các trường hợp sau: Người mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; người chưa thành niên không còn mẹ, cha hoặc cha, mẹ hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế quyền đối với con, không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con hoặc không xác định được cha mẹ.
Theo Điều 13, Chương III, Luật Cư trú năm 2020 quy định thống nhất với Điều 42 của Bộ Luật Dân sự năm 2015 về nơi cư trú của người được giám hộ như sau:
1. Nơi cư trú của người được giám hộ là nơi cư trú của người giám hộ.
2. Người được giám hộ có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của người giám hộ nếu được người giám hộ đồng ý hoặc pháp luật có quy định.
Quy định này kế thừa quy định của Luật Cư trú năm 2006, bảo đảm việc chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng, bảo vệ của người giám hộ đối với người được giám hộ.
Ngoài ra, để bảo đảm quyền tự do cư trú của người được giám hộ giống như trường hợp của người chưa thành niên, người được giám hộ có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của người giám hộ nếu được người giám hộ đồng ý hoặc pháp luật có quy định.