Cách đây 76 năm, vào ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ ấy, ngày 2-9 trở thành Ngày quốc khánh của Việt Nam, lá cờ đỏ sao vàng đã trở thành biểu tượng thiêng liêng và thấm đậm niềm tự hào của một dân tộc độc lập, tự do.
Hồ Chủ Tịch đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình (Ảnh tư liệu)
Cuối tháng 1-1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 8 ở Pắc Bó (Cao Bằng) từ ngày 10 đến 19-5-1941.
Hội nghị đã quyết định việc thành lập Mặt trận Việt Minh, khẳng định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, sau khi đánh đuổi Pháp-Nhật sẽ thành lập Chính phủ nhân dân theo tinh thần dân chủ mới.
Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, hợp thành thống nhất một khối đại đoàn kết, lực lượng hợp thành đó chính là Nhân dân Việt Nam. Trên nền tảng ấy, ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam) ra đời, xác định chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của cả nước.
Thời gian này, tình hình thế giới và trong nước biến chuyển mau lẹ, nổi bật là việc Nhật đầu hàng Đồng minh tháng 8-1945. Trung ương và Bác nhận định tình thế là vô cùng khẩn cấp, cần phải chớp thời cơ, dũng cảm và kiên quyết, kịp thời tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Với nhãn quan cách mạng vô cùng sáng suốt, Hồ Chí Minh truyền đi quyết tâm: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải giành cho bằng được nền độc lập cho Tổ quốc”.
Cách mạng tháng Tám 1945 đã giành thắng lợi vang dội, xoá bỏ ách thống trị của phong kiến, thực dân. Ngày 2-9-1945, trên lễ đài lớn tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Hồ Chủ Tịch tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã trở thành một nước tự do và độc lập”.
Trước hàng triệu đồng bào cả nước, Người khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng Minh chống phát xit mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập !….
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”.
Tuyên ngôn độc lập xứng đáng là một bản hùng ca bất hủ, mở ra một kỷ nguyên mới cho cách mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc toàn thế giới. Trong Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chủ Tịch đã gửi một thông điệp mạnh mẽ: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Lần đầu tiên lịch sử hàng nghìn năm văn hiến, nước Việt Nam có một nền độc lập trọn vẹn, chính trị tự do không bị chi phối bởi các thế lực ngoại bang, quyền tự quyết thuộc về Nhân dân.
Đây là lời thề đanh thép của một dân tộc kiên cường, và hiện thực lịch sử đã chứng minh trọn vẹn lời thề ấy. Khi người Pháp quay trở lại Việt Nam, hòng xâm chiếm nước ta một lần nữa.
Ngày 19-12-1946, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến”, Người viết: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…”. Thêm một lần đất nước Việt Nam không chịu khuất phục trước xiềng gông nô lệ, vùng lên “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Trước đó, từ ngày 20-11-1946, tiếng súng kháng chiến đã nổ ở Hải Phòng. Trong thời khắc chớp mắt của lịch sử, quân và dân Hải Phòng đã tiên phong thử lửa với kẻ thù,“Cuộc chiến anh dũng của những người con Hải Phòng như cuộc tổng diễn tập thực sự của cả nước…”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá về sự kiện này trong một cuốn hồi ký.
Hiện thực ấy, từ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, trải qua các cuộc kháng chiến vệ quốc lẫy lừng mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng mùa xuân năm 1975, chúng ta đã trưởng thành thành vĩ đại, thống nhất thành Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Trong dòng chảy vinh quang, Hải Phòng đã nổi danh với khí phách kiên trung, bất khuất nơi đầu sóng ngọn gió, xứng đáng là tiền đồn canh giữ cửa biển thiêng liêng của Tổ quốc. Khí phách ấy đã đặt nền móng cho độc lập, tự chủ, là bản hùng ca reo vang suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.
Trong đội ngũ cách mạng của nước Việt Nam dân chủ mới, quân và dân Hải Phòng luôn ngẩng cao đầu, viết lên trang sử vàng truyền thống “Trung dũng - Quyết thắng”. Đó là những tháng ngày đầy gian khổ nhưng vô cùng hào hùng, Hải Phòng đã cùng cả dân tộc nhất tề đứng dậy, sẵn sàng hy sinh không toan tính cho nền độc lập tự do. Hải Phòng “Đi trước về sau”, ngày giải phóng Hải Phòng cũng đồng nghĩa với ngày giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Bước ra từ khói lửa chiến tranh thế giới, giữa muôn vàn mất mát đau thương, nhưng với niềm tin và sáng tạo, người Hải Phòng luôn tìm riêng cho mình những cách làm mới để vượt qua. Kỷ niệm 76 năm Quốc khánh 2-9, cũng là dịp đánh giá lại cả chặng đường cách mạng, Hải Phòng đã vững chãi vượt qua sóng gió, mở ra thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng với những bứt phá ngoạn mục, đóng góp xứng đáng vào thành tựu chung của cả nước.
Những ngày này, dù trong hoàn cảnh ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 vô cùng phức tạp, nhưng Hải Phòng vẫn bừng lên tinh thần Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9, hòa cùng nhịp đập của cả nước, vừa quyết tâm đẩy lùi dịch bệnh, vừa kết đoàn để phát triển.
Phát huy truyền thống 76 năm độc lập – tự do, Hải Phòng tràn đầy khát vọng vươn xa và bay cao, dù trước mắt còn nhiều thách thức, nhưng niềm tin “Trung dũng – Quyết thắng” không bao giờ thay đổi.
Theo báo ANHP