Một số điểm mới liên quan tới quy định bảo đảm an toàn cho trẻ em khi tham gia giao thông trong Luật TTATGT đường bộ, đó là:
Một là, chú trọng giáo dục kiến thức pháp luật về TTATGT cho học sinh, sinh viên (Điều 6), trong đó giao lực lượng Cảnh sát giao thông có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan quản lý trường trung học phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp tổ chức hướng dẫn kỹ năng lái xe gắn máy an toàn cho học sinh tại cơ sở giáo dục đó. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm tích hợp nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật về TTATGT vào trong các môn học thuộc chương trình chính khóa phù hợp với từng cấp học và trình độ đào tạo, mục tiêu giáo dục, ngành đào tạo; xây dựng các tài liệu tuyên truyền, giáo dục pháp luật về TTATGT đường bộ, kỹ năng tham gia giao thông an toàn và văn hóa ứng xử khi tham gia giao thông cho học sinh. Từ đó, nâng cao nhận thức cho trẻ em về nguy hại do TNGT gây ra; đồng thời nâng cao ý thức, kỹ năng của trẻ khi tham gia giao thông. Đây là biện pháp quan trọng, phòng ngừa tai nạn cho trẻ từ sớm, từ xa.

Hai là, quy định biện pháp bảo đảm an toàn cho trẻ khi tham gia giao thông trên ô tô. Khoản 3 Điều 10 quy định: “Khi chở trẻ em dưới 10 tuổi và chiều cao dưới 1,35 mét trên xe ô tô không được cho trẻ em ngồi cùng hàng ghế với người lái xe, trừ loại xe ô tô chỉ có một hàng ghế; người lái xe phải sử dụng, hướng dẫn sử dụng thiết bị an toàn phù hợp cho trẻ em”. Quy định này có hiệu lực từ ngày 01/01/2026.

Nội dung này đã tiệm cận được với quy định của các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Hiện có 115 nước đã có luật cấm trẻ em ngồi ghế trước, trong đó có 70 nước cấm hoàn toàn và 45 nước cấm nhưng cho phép trẻ ngồi ghế trước nếu có thiết bị an toàn cho trẻ em trên xe ô tô. Có gần 100 quốc gia đã thể chế hóa quy định bắt buộc sử dụng thiết bị an toàn trẻ em trên ô tô cá nhân. Trong khu vực ASEAN, các quốc gia như Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Căm-pu-chia,… cũng đều quy định bắt buộc sử dụng thiết bị an toàn với trẻ trên xe ô tô cá nhân.
Để đưa quy định này vào thực tiễn, thời gian tới còn có nhiều yếu tố cần chuẩn bị. Các nhà lập pháp cần có thời gian chuẩn bị về phương án và các quy định đi kèm để việc thực thi luật tốt hơn. Đồng thời, cần thời gian để đưa ra các quy chuẩn chất lượng cho thiết bị; người dân cần chuẩn bị tiếp nhận, chuẩn bị và đáp ứng luật mới. Người dân cần hiểu về tầm quan trọng của việc sử dụng thiết bị đạt chuẩn và cách sử dụng đúng, cài đúng trên ô tô là rất quan trọng. Cần chủ động thực hiện quy định này để bảo vệ trẻ em trên mỗi hành trình.

Ba là, đề cao trách nhiệm của người lớn đối với việc bảo đảm an toàn cho trẻ khi tham gia giao thông. Do nhận thức và kỹ năng xử lý các tình huống giao thông hạn chế, trẻ em, nhất là trẻ dưới 7 tuổi khi tham gia giao thông phải có sự hướng dẫn, giúp đỡ của người lớn để tránh các tình huống mất an toàn. Điều 30 quy định: “trẻ em dưới 7 tuổi khi đi qua đường phải có người lớn dẫn dắt” (Điểm a Khoản 2); “mọi người có trách nhiệm giúp đỡ người khuyết tật, già yếu, mắc bệnh tâm thần, trẻ em dưới 7 tuổi, phụ nữ mang thai khi đi qua đường” (Điểm đ Khoản 2).
Bốn là, bảo đảm TTATGT đường bộ đối với xe ô tô chở trẻ em mầm non, học sinh (Điều 46). Hoạt động vận tải để đưa đón học sinh đến trường học và về nhà là rất quan trọng. Khi hoạt động này thực hiện tốt, là cơ sở gây dựng niềm tin đối với các bậc phụ huynh, đồng thời bảo vệ trẻ em trước các tình huống giao thông phức tạp nảy sinh.
Đối với xe ô tô kinh doanh vận tải chở trẻ em mầm non, học sinh phải bảo đảm các điều kiện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 35 của Luật trật tự, an toàn giao thông đường bộ; có thiết bị ghi nhận hình ảnh trẻ em mầm non, học sinh và thiết bị có chức năng cảnh báo, chống bỏ quên trẻ em trên xe; có niên hạn sử dụng không quá 20 năm; có màu sơn theo quy định của Chính phủ. Xe ô tô chở trẻ em mầm non hoặc học sinh tiểu học phải có dây đai an toàn phù hợp với lứa tuổi hoặc sử dụng xe có ghế ngồi phù hợp với lứa tuổi theo quy định của pháp luật.
Đối với xe ô tô kinh doanh vận tải kết hợp với hoạt động đưa đón trẻ em mầm non, học sinh phải đáp ứng các yêu cầu theo quy định tại khoản 3 Điều 10, khoản 1 và khoản 2 Điều 35 của Luật TTATGT đường bộ; có thiết bị ghi nhận hình ảnh trẻ em mầm non, học sinh và thiết bị có chức năng cảnh báo, chống bỏ quên trẻ em trên xe đáp ứng yêu cầu theo quy định.
Khi đưa đón trẻ em mầm non, học sinh tiểu học phải bố trí tối thiểu 01 người quản lý trên mỗi xe ô tô để hướng dẫn, giám sát, duy trì trật tự và bảo đảm an toàn cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học trong suốt chuyến đi. Trường hợp xe từ 29 chỗ trở lên (không kể chỗ của người lái xe) mà chở từ 27 trẻ em mầm non và học sinh tiểu học trở lên phải bố trí tối thiểu 02 người quản lý trên mỗi xe ô tô. Người quản lý, người lái xe có trách nhiệm kiểm tra trẻ em mầm non, học sinh tiểu học khi xuống xe; không được để trẻ em mầm non, học sinh tiểu học trên xe khi người quản lý và người lái xe đã rời xe.
Người lái xe ô tô đưa đón trẻ em mầm non, học sinh phải có tối thiểu 02 năm kinh nghiệm lái xe vận tải hành khách.
Xe đưa đón trẻ em mầm non, học sinh được ưu tiên trong tổ chức phân luồng, điều tiết giao thông, bố trí nơi dừng xe, đỗ xe tại khu vực trường học và tại các điểm trên lộ trình đưa đón trẻ em mầm non, học sinh.
Cơ sở giáo dục phải xây dựng quy trình bảo đảm an toàn khi đưa đón trẻ em mầm non, học sinh; hướng dẫn cho lái xe và người quản lý trẻ em mầm non, học sinh nắm vững và thực hiện đúng quy trình; chịu trách nhiệm bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường bộ khi tổ chức đưa đón trẻ em mầm non, học sinh của cơ sở giáo dục đó.
Năm là, trong chính sách của Nhà nước về TTATGT đường bộ có quy định: “Bảo đảm công bằng, bình đẳng, an toàn đối với người tham gia giao thông đường bộ; tạo thuận lợi cho trẻ em, phụ nữ mang thai, người già yếu, người khuyết tật trong tham gia giao thông đường bộ; xây dựng văn hóa giao thông; giáo dục, phổ biến, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ cho trẻ em, học sinh để hình thành, nâng cao ý thức tự bảo vệ bản thân và tự giác chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông đường bộ” (Khoản 4 Điều 4). Điểm c khoản 1 Điều 33 quy định: người lái xe mô tô hai bánh, xe gắn máy chỉ được chở một người; trường hợp người được chở là trẻ em dưới 12 tuổi (thay vì 14 tuổi theo quy định của Luật Giao thông đường bộ trước đây) thì được chở tối đa hai người. Việc điều chỉnh độ tuổi này để đảm bảo phù hợp với thể lực, chiều cao của trẻ em ngày nay phát triển hơn so với trước đây.